Phát biểu của TS Nguyễn Quân, tổng kết Diễn đàn “Chuyển đổi xanh” 2025

Đứng ở góc độ của một người tiêu dùng, đồng thời là một chuyên gia của Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao, tôi xin tổng kết lại những vấn đề chúng ta đã trao đổi trong buổi sáng hôm nay tại diễn đàn “Chuyển đổi xanh và ngày hội tái chế”.
Chúng ta đã được lắng nghe nhiều báo cáo và ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo, từ ý kiến của Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Văn Được đến ý kiến của ông Huỳnh Thành Đạt, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, về những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Chính phủ và Thành phố đối với việc chuyển đổi xanh, phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh phức tạp hiện nay.
Sau đó, chúng ta cũng được nghe những báo cáo tổng hợp, bổ ích với rất nhiều thông tin từ ông Phạm Bình An – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM; ông Nguyễn Gia Huy Chương – CEO PRO Việt Nam; ông Đinh Hồng Kỳ – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Xanh TP.HCM. Và ý kiến của một doanh nghiệp có thể nói là đi đầu trong việc tái chế, đó là ông Lê Anh – Giám đốc Phát triển bền vững Công ty Cổ phần Nhựa tái chế Duy Tân.
Chúng ta cũng đã chứng kiến lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao với Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (PRO Việt Nam) và Đại học Quốc gia TP.HCM.
Chúng ta cũng được theo dõi một phiên tọa đàm về hành trình xanh của các doanh nghiệp tại TP.HCM, với các diễn giả là những người có kinh nghiệm trong công tác quản lý, hỗ trợ cho doanh nghiệp, mang đến rất nhiều ý kiến khác nhau. Cá nhân tôi thấy rất bổ ích, và các doanh nghiệp cũng thấy rằng có nhiều thông tin trong diễn đàn hữu ích cho quá trình sản xuất, kinh doanh hướng tới chuyển đổi xanh.
Tôi xin tổng hợp lại tương đối ngắn gọn 3 vấn đề mà tôi tin là tất cả chúng ta đều đang suy nghĩ, sẽ còn trao đổi và thảo luận thêm, để thấy rằng chuyển đổi xanh không chỉ là vấn đề của riêng doanh nghiệp.
1. Tại sao chúng ta phải chuyển đổi xanh?
Đây là câu hỏi mà rất nhiều người đặt ra và tôi cũng đã suy nghĩ từ nhiều năm. Có người nói câu hỏi này quá dễ, bởi công nghệ giúp xã hội và thế giới phát triển, nhưng cũng chính công nghệ đang hủy hoại môi trường và đẩy cả thế giới đến những hiểm họa cực đoan, như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường nặng nề.
Nhiều người nói với tôi rằng, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 30 thế giới về quy mô nền kinh tế, nhưng phát thải carbon và ô nhiễm chỉ chiếm khoảng 0.5% của thế giới. Vậy nếu chúng ta cam kết phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 thì có thực sự quan trọng hay không? Bởi kể cả chúng ta có làm được mục tiêu đó thì cũng chỉ giảm phát thải của thế giới chưa đến 0.5%, trong khi các quốc gia phát triển, các cường quốc lớn thậm chí còn chưa chịu cam kết về phát thải, kể cả Mỹ.
Vậy thì, các cường quốc phát thải lớn còn không cam kết, vẫn tiếp tục phát thải, thì Việt Nam chúng ta cam kết có làm thay đổi được biến đổi khí hậu toàn cầu hay những hiểm họa môi trường hay không? Câu trả lời nằm ở ý chí của Đảng và Nhà nước ta, một ý chí rất cao. Chúng ta sẵn sàng cam kết, mặc dù biết rằng đóng góp của chúng ta vào ô nhiễm và phát thải carbon chỉ là một phần quá nhỏ, nhưng chúng ta vẫn đi tiên phong cam kết trước cộng đồng quốc tế. Điều này thể hiện Việt Nam là một quốc gia hợp tác toàn diện và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
2. Đặt ra vấn đề chuyển đổi xanh ở thời điểm này liệu có thích hợp với doanh nghiệp Việt Nam?
Đây là câu hỏi cũng được nhiều người và các diễn giả tại diễn đàn đề cập. Chúng ta biết doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là nhỏ và siêu nhỏ, lại đang chịu ảnh hưởng vô cùng lớn từ hậu đại dịch COVID-19, các cuộc chiến thương mại giữa các nước lớn, và các xung đột địa chính trị, vũ trang toàn cầu.
Trong khi nhiều doanh nghiệp đang vật lộn để tồn tại, đứng trên bờ vực phá sản, thì việc đặt ra vấn đề chuyển đổi kép – vừa chuyển đổi số, vừa chuyển đổi xanh – liệu có quá nặng nề?
Chuyển đổi số là để chúng ta tăng trưởng nhanh, chuyển đổi xanh là để chúng ta phát triển bền vững. Làm đồng thời được hai việc đó thì quá vĩ đại, quá thành công với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ. Chúng ta biết rằng, ngay cả các quốc gia lớn trong những giai đoạn còn phát triển thấp như Việt Nam, họ đã phải hy sinh môi trường cho tăng trưởng. Cách đây 20 năm, nếu ai đã sang Bắc Kinh (Trung Quốc) sẽ thấy thành phố này ô nhiễm vào loại nhất thế giới. Để tổ chức được Thế vận hội 2008, Trung Quốc đã phải cấm các doanh nghiệp toàn thành phố Bắc Kinh dừng sản xuất một tháng trong thời gian diễn ra Olympic, hạn chế các phương tiện giao thông, để có bầu không khí tạm chấp nhận được.
Rất nhiều quốc gia hiện nay trên thế giới có trình độ phát triển cao hơn chúng ta, nhưng họ vẫn chưa làm vấn đề môi trường triệt để như chúng ta, chẳng hạn như Ấn Độ, họ chưa có những động thái tích cực như chúng ta trong việc bảo vệ môi trường.
Vậy bây giờ chúng ta đặt ra vấn đề chuyển đổi xanh có đúng thời điểm hay không, hay là chờ khi chúng ta trở thành nước có thu nhập trung bình cao (2030) hoặc thậm chí thu nhập cao (2045) chúng ta mới quay trở lại vấn đề bảo vệ môi trường, để duy trì tốc độ tăng trưởng 2 con số? Mà tăng trưởng 2 con số lại bảo vệ được môi trường là một thách thức vô cùng lớn đối với doanh nghiệp và bộ máy nhà nước.
3. Làm thế nào để chuyển đổi xanh một cách thực chất?
Câu hỏi thứ ba mà nhiều người cũng đặt ra là: “Chúng ta đang làm có thực sự xanh không?”. Một diễn giả đã đặt vấn đề: “chuyển đổi xanh là thật hay là không thật”. Tôi không dám nói chuyển đổi xanh là giả, bởi chúng ta biết nếu chúng ta chuyển đổi thì có thể lại có những hệ lụy khác.
Ví dụ hiện nay chúng ta đang nói rằng ô tô và xe máy chạy xăng là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí. Các báo cáo của cơ quan quản lý nói rằng, chúng chiếm đến 60% ô nhiễm không khí. Nhưng Bộ Nông nghiệp và Môi trường lại nói rằng, thực ra nó chỉ gây ra 15% trong tổng nguyên nhân gây ô nhiễm.
Bây giờ chúng ta chuyển sang xe chạy điện, liệu có xanh thật không? Bởi nếu xe chạy điện, chúng ta sạc điện từ nguồn của các nhà máy điện dùng nguyên liệu hóa thạch, vẫn chạy than, dầu, khí thiên nhiên, thì ô nhiễm có thể bớt ở nội đô thành phố, nhưng tổng phát thải ô nhiễm của Việt Nam sẽ còn lớn hơn so với việc sử dụng xe chạy xăng. Bởi hiệu suất của các nhà máy điện chỉ khoảng 40% là tối đa (nhà máy điện chạy than, dầu). Qua đường dây truyền tải, hệ thống sạc điện, hiệu suất còn lại chỉ khoảng 30%. Có nghĩa là đốt 100 tấn than thì chỉ có khoảng 30 tấn than biến thành điện để chạy xe điện. Trong khi hiệu suất của động cơ đốt trong là trên 50%.
Chúng ta thấy rằng, nếu tất cả xe chạy điện, ngoài việc quá tải lưới điện, tổng phát thải (từ nhà máy điện chạy than, dầu) còn lớn hơn so với việc để tình trạng xe ô tô, xe máy chạy xăng.
Chúng ta đặt vấn đề này để thấy rằng rõ ràng chúng ta mong muốn chuyển đổi xanh, chuyển từ xe chạy xăng sang chạy điện, nhưng đó là một chuyển đổi xanh không thực chất, bởi gián tiếp nó còn gây ô nhiễm lớn hơn.
Tương tự như vậy, chẳng hạn như chúng ta tái chế sản phẩm nhựa, nhưng lại tiêu thụ quá nhiều điện, thì cũng không phải là một giải pháp thực sự xanh. Chúng ta chỉ thực sự chuyển đổi xanh khi tiết kiệm được nguồn năng lượng, nguyên liệu và nhân lực.
Trên tinh thần như vậy, đứng dưới góc độ cá nhân, tôi có ba kiến nghị với các doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
Đầu tiên: Chúng ta phải hết sức khẩn trương. Đảng và Nhà nước đã xác định chuyển đổi xanh, chuyển đổi kép là yêu cầu cần thiết rồi. Như lời ông Đinh Hồng Kỳ đã nói, nếu chúng ta định kế hoạch hai tháng, chưa kịp họp xong, chưa kịp phê duyệt kế hoạch thì tình hình đã khác. Bây giờ chúng ta phải thích ứng, khẩn trương làm hàng ngày, hàng tuần, chứ không phải hàng tháng. Toàn bộ bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương, cùng các doanh nghiệp phải có những ứng phó kịp thời. Vì biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường không đợi chúng ta, chúng ta phải có kế hoạch đáp ứng kịp thời để phòng chống được tác hại của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường.
Vấn đề thứ hai: Tôi rất ấn tượng với ký kết của Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao với Đại học Quốc gia TP.HCM. Đó là một biểu hiện của liên kết ba nhà: Nhà nước, Nhà doanh nghiệp và Nhà khoa học. Ô nhiễm môi trường là vấn đề cực lớn, bao hàm nhiều khía cạnh, không thể một doanh nghiệp nào có thể giải quyết đơn lẻ. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc ban hành cơ chế chính sách, ưu đãi thuế, đất đai… Đồng thời, các nhà khoa học giúp các doanh nghiệp trong việc tạo ra công nghệ có thể tái chế, tạo ra vật liệu mới, thay thế vật liệu gây ô nhiễm.
Như túi nylon hiện nay gây ô nhiễm, dù đã nghiên cứu ra vật liệu thay thế, nhưng việc đưa nó trở thành sản phẩm tương đối phổ biến còn khó vì giá thành cao. Do đó, sự liên kết ba nhà sẽ giúp cho chuyển đổi xanh thuận lợi hơn, nhanh hơn và có hiệu quả hơn.
Vấn đề thứ ba: Tôi kiến nghị với TP.HCM. Với các nghị quyết 57, 68 của Bộ Chính trị hay Nghị quyết 98 về cơ chế đặc thù cho thành phố, TP.HCM có thể thí điểm ngay một dự án. Chúng ta lựa chọn ra những thứ gây ô nhiễm cho thành phố, chọn ra một nguồn gây ô nhiễm nào đó mà chúng ta cần giải quyết nhanh nhất, triệt để nhất. Theo tôi, ô nhiễm từ túi nylon và vật liệu làm túi nylon đang là vấn đề bức xúc. Đặc biệt là bây giờ chúng ta bán hàng online, thương mại điện tử nhiều thì bao bì hầu hết là túi nylon, nó phân hủy hàng trăm năm chưa hết, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Chúng ta có nên xây dựng một dự án về vật liệu thay thế túi nylon trong toàn bộ hệ thống dịch vụ thương mại của chúng ta hay không?
Nhà nước sẽ đầu tư và phải mời được những nhà khoa học giỏi trong ngành, sử dụng cơ chế Tổng công trình sư. Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng một danh mục các Tổng công trình sư. Chúng ta mời được một nhà khoa học đầu ngành, có uy tín, chỉ huy một bộ máy, đội ngũ nghiên cứu mạnh, giúp Thành phố trong thời gian sớm nhất tạo ra vật liệu mới, thay thế toàn bộ bao bì nylon. Trước mắt sẽ giảm được vấn đề ô nhiễm cho thành phố, tạo thói quen, nhận thức mới cho người tiêu dùng. Sau đó, chúng ta có thể làm tiếp về xử lý rác thải, phát điện từ rác thải hay xử lý nước trước khi thải ra môi trường. Mỗi vấn đề đó chúng ta lập thành dự án lớn của thành phố theo cơ chế Tổng công trình sư, giải quyết triệt để từng vấn đề một.