Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đang cùng đứng trước một tình thế lưỡng nan. Đó là làm thế nào để tăng cường an ninh kinh tế khi phải đối mặt với một Trung Quốc đối thủ cạnh tranh sát rạt và một nước Mỹ không thân thiện dưới thời của Tổng thống Donald Trump. Ba nền dân chủ Đông Bắc Á có những công cụ mạnh mẽ trong tay: Đó là các doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh quốc tế, giữ vị thế tiên phong trong nhiều lĩnh vực công nghệ. Đó là những chính quyền có năng lực, đã tạo ra môi trường tăng trưởng kinh tế trong nhiều thập niên.
Các nhà hoạch định chính sách ở Seoul, Đài Bắc và Tokyo hiện cần chuyển sự chú ý của họ sang một tác nhân mới để đảm bảo an ninh kinh tế cho quốc gia: các công ty khởi nghiệp.
Ba nền kinh tế này đã nuôi dưỡng các công ty khởi nghiệp trong nhiều thập niên. Chương trình J-Startup của Nhật Bản, Trung tâm Kinh tế Sáng tạo & Đổi mới của Hàn Quốc và Taiwan Tech Arena là ba ví dụ về các sáng kiến do chính quyền lãnh đạo nhằm nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh và mở rộng quy mô các công ty khởi nghiệp. Điều quan trọng là những sáng kiến này và các sáng kiến khác do công chúng tài trợ đã tồn tại sau những thay đổi chính quyền ở ba nơi này. Điều này cho thấy có sự đồng thuận rộng rãi trên toàn quang phổ chính trị rằng các công ty khởi nghiệp là thiết yếu đối với cấu trúc kinh tế và xã hội quốc gia.
Hơn nữa, Đông Bắc Á xem mối quan hệ với các startup là hợp tác, chứ không phải đối đầu với các tập đoàn và công ty lớn hiện có. Chương trình J-Startup có Mitsubishi Estate và Sony là những đơn vị hậu thuẫn, trong khi các trung tâm Kinh tế Sáng tạo & Đổi mới bao gồm LG Electronics và Samsung Electronics là đối tác. Trong trường hợp của Đài Loan, Taiwan Tech Arena hợp tác với các công ty như Acer và Chunghwa Telecom.
Sự hợp tác giữa chính quyền, các tập đoàn và startup nhấn mạnh rằng Nhật Bản và Hàn Quốc nói riêng đã phát triển các mô hình đổi mới mở, trong đó tất cả các bên đều có thể hưởng lợi từ sự hợp tác. Điều này cũng đang trở nên phổ biến hơn ở Đài Loan. Họ có thể tận dụng các ý tưởng, chuyên môn, công nghệ và nguồn tài trợ theo cách mà thế mạnh của một loại bên có thể mang lại lợi ích cho bên khác — ví dụ, loại tài trợ ổn định mà chính quyền có thể cung cấp giúp các công ty khởi nghiệp tận dụng tối đa ADN đổi mới của họ. Theo quan điểm của Seoul và Tokyo, mô hình đổi mới mở này có thể thúc đẩy việc làm, sản phẩm mới và tăng trưởng kinh tế.
Là một phần của mô hình đổi mới mở, startup trở thành những nhân tố trung tâm trong an ninh kinh tế của ba nền kinh tế Đông Bắc Á. Trước hết, các công ty khởi nghiệp cho phép các nỗ lực phục hồi chuỗi cung ứng trong các lĩnh vực từ pin điện đến robot. Xét cho cùng, đây là những ngành không có một công ty giữ vị thế thống lĩnh toàn cầu một cách rõ ràng.
Điều này lại khác với ngành chip, với TSMC, Samsung và SK Hynix thống trị. Do đó, các startup có nhiều cơ hội hơn để đưa ra các sản phẩm, công nghệ và quy trình có thể hỗ trợ các công ty lớn hơn, những công ty cuối cùng sẽ sản xuất ra các sản phẩm hoàn thiện. Điều này đặc biệt đúng với Nhật Bản và Hàn Quốc, xét đến nền kinh tế đa dạng hơn của họ. Ngay cả trong các ngành có một công ty nổi bật dẫn dắt, cách tiếp cận này cũng không phải là hiếm. Ví dụ, trong trường hợp của Đài Loan, mặc dù TSMC không hợp tác trực tiếp với các sáng kiến khởi nghiệp của chính quyền, nhưng hãng hợp tác với các trường đại học nội địa hàng đầu và các trường trung học ưu tú để thúc đẩy nghiên cứu và bồi dưỡng thế hệ tài năng tiếp theo. Đổi lại, điều này hỗ trợ khả năng cạnh tranh và đổi mới của chính TSMC.
Hơn nữa, startup có thể đóng vai trò quan trọng ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong việc quản lý các rủi ro hệ thống bao gồm biến đổi khí hậu, tình trạng thiếu năng lượng và các mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng. Ba nền dân chủ Đông Bắc Á có cấu trúc chính quyền rất có năng lực, như cách họ đã phản ứng thành công với dịch Covid-19.
Tuy nhiên, theo định nghĩa, các doanh nhân là những người chấp nhận rủi ro, thường hoạt động trong các công nghệ mới nổi, có góc nhìn có thể giúp họ phát hiện ra các rủi ro hệ thống mới. Hãy lấy trường hợp của AI, với nhu cầu năng lượng khổng lồ. Những nhà sáng lập và các kỹ sư dẫn đầu quá trình phát triển công nghệ này là những người đầu tiên phát hiện điều. Họ là người có kiến thức trực tiếp về lượng năng lượng cần thiết để các mô hình ngày càng tốt hơn hoạt động. Chính quyền sẽ phải phản ứng lại. Dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực bao gồm các sản phẩm làm đẹp có nguồn gốc từ công nghệ sinh học, robot hình người hoặc máy tính lượng tử, ba nền kinh tế này có các startup có thể giúp chính quyền giảm thiểu rủi ro hệ thống tiềm ẩn.
Ít được nói đến nhưng cũng có liên quan không kém đối với an ninh kinh tế của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là mối liên kết ngày càng sâu sắc giữa các startup với các đối tác của họ ở Mỹ, đặc biệt là Silicon Valley và khu vực Boston. Cần phải thừa nhận rằng Seoul, Đài Bắc và Tokyo đều nhận ra an ninh kinh tế phần nào gắn liền với nước Mỹ. Điều này giải thích cho sự tham gia của họ vào các sáng kiến như Liên minh Chip 4, Khung kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hoặc Quan hệ đối tác an ninh khoáng sản.
Gần đây hơn, Seoul, Đài Bắc và Tokyo đã phản ứng với thuế quan và chủ nghĩa dân tộc kinh tế của Trump bằng cách tìm cách đàm phán trực tiếp với chính quyền Mỹ, cũng như những lời hứa, cam kết các khoản đầu tư lớn vào Mỹ.
Các doanh nhân Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan thường có mối quan hệ chặt chẽ với Mỹ, hoặc là vì họ đã học đại học ở đó, nhờ các chương trình mà chính quyền kết nối họ với các đối tác Mỹ hoặc là do mối quan hệ gia đình. Ngoài ra, các tập đoàn Nhật Bản như SoftBank, Mitsubishi UFJ Financial Group và Sumitomo Mitsui Financial Group, cùng các đối tác Hàn Quốc của họ, bao gồm Samsung, Kakao và Naver, nằm trong số những nhà đầu tư lớn nhất vào các công ty khởi nghiệp của Mỹ, qua đó củng cố thêm mối quan hệ với nước Mỹ. Do đó, các công ty khởi nghiệp có tiềm năng trở thành một yếu tố quan trọng khác để thúc đẩy an ninh kinh tế thông qua mối quan hệ sâu sắc hơn với Mỹ.
Cuối cùng, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan cần hiểu rằng chính quyền Trung Quốc khuyến khích các công ty khởi nghiệp cạnh tranh trong các công nghệ được coi là thiết yếu đối với an ninh kinh tế – và cả đối với an ninh quốc gia.
Trong trường hợp của Mỹ, mệnh lệnh của chính quyền thời chiến cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Silicon Valley, từ việc hỗ trợ cho radio và radar trong Thế chiến II cho đến các hợp đồng quốc phòng thúc đẩy những thành công ban đầu của khu vực. Các startup là nội tại đối với nền kinh tế của đất nước và khi công nghệ trở thành vấn đề an ninh quốc gia, chúng đã trở thành một phần rõ ràng hơn của bộ máy an ninh kinh tế của đất nước.
Các nền dân chủ Đông Bắc Á nên noi theo, xem các startup là một thành phần quan trọng trong chiến lược an ninh kinh tế.
Ricky Hồ chuyển ngữ
từ bài gốc trên Nikkei Asia “Startup are a key component of economic security” của Ramon Pacheco Pardo (giáo sư quan hệ quốc tế tại King’s College London và là Chủ tịch KF-VUB Hàn Quốc tại Trường Quản trị Brussels) và Robyn Klingler-Vidra (phó giáo sư kinh tế chính trị và tinh thần kinh doanh tại Trường Kinh doanh King’s)