Bản tin hội nhập, từ 8 – 15/4/2021

239
1/ Vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng của nước ngoài?
30 giây đọc | 
Kết nối giữa khu vực FDI và doanh nghiệp (DN) Việt Nam vẫn kém. Hầu hết giao dịch không có DN Việt Nam. Tiêu biểu, để trở thành nhà cung ứng cho tập đoàn Samsung là không dễ. Hiện tại có 50 DN Việt Nam trở thành nhà cung ứng cấp 1 của tập đoàn này. Tuy nhiên, khoảng 80% giao dịch của Samsung Electronics tại Việt Nam đều là DN FDI có quy mô lớn khác của Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản (theo Vietnam Investment Review – VIR).
Tại cuộc họp ngày 12/3/2021 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, DN Việt Nam phải cải thiện khả năng liên kết, tạo thành khối để nâng cao năng lực cạnh tranh và cùng nhau phát triển. Hiện chỉ có khoảng 21% DN nhỏ và vừa tham gia được một phần chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với đối tác nước ngoài.
Nguồn: Trung Tâm WTO
2) Việt Nam – Ả rập Xê út: Thúc đẩy hợp tác sâu rộng
30 giây đọc | 
Chiều 7/4, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng và Thứ trưởng Bộ Kinh tế và Kế hoạch Ả rập Xê út đã chủ trì Phiên họp toàn thể Kỳ họp lần thứ 4 Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Ả rập Xê út về hợp tác kinh tế, khoa học và công nghệ qua trực tuyến.
Trong thời gian qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước liên tục tăng nhanh và đạt mức cao mức nhất 1,87 tỷ USD vào năm 2014; và năm 2020 đạt 1,6 tỷ USD. Việt Nam luôn nhập siêu từ Ả rập Xê út; chủ yếu là nguyên liệu đầu vào như chất dẻo nguyên liệu, khí đốt hóa lỏng, hóa chất và sản phẩm hóa chất, để phục vụ nhu cầu sản xuất ở trong nước. Các mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu gồm có điện thoại di động, sản phẩm dệt may, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; giày dép, gỗ …
Tại buổi họp, phía Việt Nam cũng xem xét bổ sung thêm các doanh nghiệp Việt Nam vào danh sách được xuất khẩu thủy sản vào Ả rập Xê út, tiến tới gỡ bỏ hoàn toàn lệnh tạm ngừng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam. Thứ trưởng Cao Quốc Hưng bày tỏ mong muốn Ả rập Xê út sẽ làm cầu nối để Việt nam đẩy mạnh xuất khẩu vào khu vực Trung Đông. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp Ả rập đầu tư vào Việt Nam.
Kết thúc Kỳ họp, hai bên nhất trí Kỳ họp lần thứ 5 Ủy ban hỗn hợp sẽ được tổ chức vào năm 2023 tại Ả rập Xê út.
Nguồn: Báo Công Thương
3/ Vai trò Việt Nam trong không gian Á – Âu, đặc biệt là quan hệ Nga – Việt
1 phút đọc | 
Ngày 6/4, Liên hiệp Hội đồng các dân tộc Á – Âu tổ chức hội nghị bàn tròn quốc tế với chủ đề “Quan hệ Ðối tác Á – Âu mở rộng – Vai trò của Việt Nam trong việc hình thành các sáng kiến chiến lược mới”. Diễn ra theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Hội nghị hướng đến các nước thuộc Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU), Hiệp hội các quốc gia Ðông – Nam Á (ASEAN), Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS) và một số hiệp hội, tổ chức trong khu vực Á – Âu và châu Á – Thái Bình Dương.
Ông Andrey Belyaninov, Tổng Thư ký Hội đồng các dân tộc Á – Âu, chúc mừng Việt Nam hiện đã trở thành “con hổ mới nổi của châu Á” với một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và thị trường rộng lớn, đồng thời  hy vọng hai nước cùng đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân thời gian tới.
Đại diện thương mại Nga tại Việt Nam V. Kharinov nhấn mạnh, năm 2020 và đầu năm 2021, dù chịu tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, song kim ngạch thương mại Nga – Việt Nam vẫn tăng trưởng tốt. Ngày càng nhiều công ty Nga quan tâm phát triển thương mại với Việt Nam. Trong giai đoạn 2019-2020 tăng gấp 2,5 lần. Chiều ngược lại, nhiều công ty Việt Nam cũng nhận được giấy phép xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Nga.
Theo Nguyễn Quốc Hùng, Tiến sĩ kinh tế, nghiên cứu viên cao cấp Trung tâm chiến lược Nga tại châu Á thuộc Viện Kinh tế (Viện Hàn lâm khoa học Nga), Nga cần xây dựng và áp dụng chiến lược quốc gia về hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực di cư. Nga cần cởi mở hơn đối với những người di cư có trình độ học vấn, doanh nhân và nhà đầu tư từ Việt Nam và các nước châu Á khác.
Nguồn: ASEAN Việt Nam
Hội nghị bàn tròn quốc tế “Quan hệ Ðối tác Á – Âu mở rộng – Vai trò của Việt Nam trong việc hình thành các sáng kiến chiến lược mới”.
4/ Cứ 4 doanh nghiệp mới có 1 doanh nghiệp hái “trái ngọt” từ CPTPP
2 phút đọc | 
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực hơn 2 năm, nhưng theo báo cáo của VCCI, những gì đã đạt được còn thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng.
Ngày 7/4, tại Hà Nội, Chương trình Aus4Reform – Sứ quán Australia cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức hội thảo để báo cáo và đánh giá. TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI cho hay, xuất khẩu của Việt Nam 2020 đi các thị trường đã phê chuẩn CPTPP chỉ đạt kim ngạch xấp xỉ 2019 (tác động Covid-19). Mặt tích cực là tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan CPTPP trong năm thứ 2 này đã cải thiện.
Theo báo cáo từ VCCI, 69% doanh nghiệp nghe nói hoặc biết sơ bộ về CPTPP, cao hơn tất cả các FTA khác, 25% doanh nghiệp có hiểu biết nhất định về Hiệp định. Tuy nhiên, 20 doanh nghiệp mới có 1 doanh nghiệp biết rõ về các cam kết CPTPP liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
Cụ thể, cứ 4 doanh nghiệp mới có 1 đã từng được trải nghiệm “trái ngọt” từ Hiệp định này. Nhóm lợi ích phổ biến nhất vẫn là thuế quan, đặc biệt là Canada, Mexico. Lý do chủ yếu là không có bất kỳ hoạt động kinh doanh nào liên quan tới thị trường hay đối tác ở khu vực CPTPP trong hai năm vừa qua.
Báo cáo VCCI cũng nhìn nhận, doanh nghiệp cần liên kết và hợp tác trong kinh doanh để cùng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo sức ép về cạnh tranh qua đó thu lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp từ quá trình này.
Nguồn: Báo Hải Quan
Hội thảo “2 năm thực thi CPTPP tại Việt Nam: Đánh giá từ góc nhìn doanh nghiệp”.
5/ Doanh nghiệp muốn hưởng lợi từ ACFTA cần lưu ý gì về xuất xứ hàng hóa?
3 phút đọc | 
Thông tư số 12/2019/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (ACFTA) có nhiều điểm cần lưu ý.
Cụ thể, đối với Quy tắc xuất xứ hàng hóa: Hàng hóa được coi là có xuất xứ nếu được sản xuất chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ; ngoài tiêu chí “Hàm lượng giá trị khu vực” (RVC), quy tắc chung áp dụng thêm tiêu chí xuất xứ chuyển đổi mã số hàng hóa ở cấp độ 4 số (CTH); quy định về De Minimis (tỷ lệ nguyên liệu không đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa); nguyên liệu giống nhau và thay thế được cho nhau.
Đối với Quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR): Ngoài quy tắc xuất xứ chung, PSR được xây dựng trên Phiên bản HS năm 2017, bổ sung tiêu chí xuất xứ với nhiều dòng hàng.
Nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hóa đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan có thể đề nghị cơ quan, tổ chức cấp C/O kiểm tra, xác minh xuất xứ trước khi xuất khẩu. Kết quả kiểm tra, xác minh định kỳ hoặc khi cần thiết, được chấp nhận như chứng từ chứng minh xuất xứ hàng hóa sau này. Việc kiểm tra này có thể không cần áp dụng đối với hàng hóa dễ dàng xác định được xuất xứ thông qua bản chất của hàng hóa đó.
Cơ quan, tổ chức cấp C/O tiến hành kiểm tra từng trường hợp đề nghị cấp C/O để bảo đảm rằng: Đơn đề nghị cấp C/O và C/O mẫu E được khai đầy đủ theo quy định tại mặt sau C/O mẫu E và được ký bởi thẩm quyền; Xuất xứ hàng hóa phù hợp với quy định tại Thông tư này; Các thông tin khác trên C/O mẫu E phù hợp với chứng từ kèm theo; Mô tả hàng hóa, số lượng và trọng lượng, ký hiệu và số kiện hàng, số kiện và loại kiện hàng được kê khai phù hợp với hàng hóa xuất khẩu; Nhiều mặt hàng có thể được khai trên cùng một C/O mẫu E, phù hợp với quy định và pháp luật Nước thành viên nhập khẩu với điều kiện từng mặt hàng phải đáp ứng các quy định về xuất xứ.
Ngoài ra, về kiểm tra sau, đề nghị kiểm tra của cơ quan hải quan Nước thành viên nhập khẩu phải làm bằng văn bản, gửi kèm bản sao của C/O mẫu E có liên quan và nêu rõ lý do cũng như bất cứ thông tin bổ sung nào cho thấy các chi tiết trên C/O này có thể không chính xác, trừ kiểm tra ngẫu nhiên;
Hải quan Nước nhập khẩu có quyền trì hoãn việc hưởng ưu đãi thuế trong khi chờ kiểm tra. Bên cạnh, họ có thể áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu cao hơn hoặc yêu cầu nhà nhập khẩu đặt cọc một số tiền tương ứng mới cho phép thông quan, với hàng hóa không cấm hoặc hạn chế nhập khẩu và không nghi ngờ về gian lận xuất xứ.
Cơ quan hải quan hoặc tổ chức cấp C/O của Nước xuất khẩu phản hồi không muộn hơn 90 ngày sau ngày nhận được đề nghị kiểm tra. Trường hợp không thể đúng hạn, cơ quan hải quan hoặc tổ chức cấp C/O của Nước xuất khẩu có thể đề nghị bằng văn bản gia hạn thêm 90 ngày nữa; nhưng phải trong thờ Nước thành viên xuất khẩu.
Nguồn: Báo Công Thương
6/ Doanh nghiệp xuất khẩu gồng mình vượt khó trước căng thẳng chi phí logistics
2 phút đọc | 
Kể từ cuối tháng 3/2021, sự cố kênh đào Suez đã khiến tình hình thuê container căng thẳng trở lại. Chi phí logistics tăng, khó chồng khó cho doanh nghiệp Việt.
Đơn cử, Công ty CP XNK Hàng Việt (Furnist) xuất khẩu mỗi tháng một lô hàng đồ gỗ đến châu Âu. Trước dịch bệnh Covid-19, giá cước vận chuyển một lô hàng từ Việt Nam đến cảng Hamburg của Đức chỉ khoảng 3.000 USD thì nay tăng thêm khoảng 5.000 USD. Do bán theo hình thức FOB nên đối tác của doanh nghiệp này rất ngại chuyện đặt các đơn hàng mới, do giá vận chuyển đã bằng giá hàng.
“Thông thường muốn ship 1 container hàng thì chúng tôi phải hẹn vài lần. Ví dụ 1 booking đó có 10 container thì chúng tôi chỉ lấy được 3 – 4 container, những container kia chờ đợi thời gian tiếp theo. Việc này ảnh hưởng đến thời gian sản xuất cũng như tiến độ giao hàng của doanh nghiệp rất nhiều” – ông Nguyễn Văn Sang – Giám đốc điều hành của Furnist – chia sẻ.
Tương tự với thủy sản, cuối 2020, tình trạng căng thẳng phí thuê container rỗng đã kéo kim ngạch xuất khẩu chậm lại. Ông Trương Đình Hòe – Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam – cho biết: Ngành thủy sản đang đối mặt với giá thuê container lạnh quá cao để xuất khẩu sang Mỹ, châu Âu do thiếu container… Chưa kể từ đầu =2021, nhiều mặt hàng thiết yếu cho hoạt động của các nhà máy chế biến thủy sản như găng tay cao su, nhựa trong, băng keo đã tăng chóng mặt tới 25%.
Ngay tại nội địa chi phí logistics hiện đang rất cao, gây ảnh hưởng lớn đến chi phí vận hành. Cụ thể, thực tế tại Tập đoàn Minh Phú cho thấy, chi phí logistics để vận chuyển 6.700 – 7.000 container/năm từ hai nhà máy ở Hậu Giang và Cà Mau lên TP. Hồ Chí Minh xuất đi các nước ngốn 60 tỷ đồng. Trong đó, Cà Mau lên TP. Hồ Chí Minh là 11 triệu đồng/container; còn Hậu Giang lên hết 7 triệu đồng/container. Chi phí logistics cao dẫn đến giá tôm của Việt Nam cao hơn của Ấn Độ và Indonesia từ 1 – 2 USD/kg.
“Các chi phí logistics gồm chi phí vận chuyển nội địa, cước thuê container rỗng đang ở mức cao ngất ngưởng, đó là chưa kể giá thu mua nguyên liệu đầu vào cũng tăng cao hơn so với cùng kỳ dẫn tới giá cạnh tranh của sản phẩm giảm so với các đối thủ khác” – ông Phan Văn Có – Giám đốc Marketing Công ty TNHH Vrice – quan ngại.
Về lâu về dài, Chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch đề xuất, phải có kế hoạch cụ thể cải thiện hạ tầng cảng biển, đường bộ, thủy nội địa… từ đó tạo ra kết nối đồng bộ. Nhưng để làm được cần có sự quan tâm của Chính phủ, và một lộ trình dài hơi.
“Tôi ví dụ như khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam này, hệ thống giao thông kết nối giữa trung tâm kinh tế với các địa bàn trong vùng bất cập nhất vẫn là hệ thống giao thông đường bộ. Và vấn đề này cũng không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Tôi cho rằng Chính phủ cần có một chương trình hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí kết nối, đây là vấn đề còn quan trọng hơn giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp” – ông Trần Du Lịch bày tỏ quan điểm.
Nguồn: Báo Công Thương
7/ WTO: Thương mại phục hồi nhanh hơn dự kiến nhưng có sự chênh lệch giữa các khu v ực
1 phút đọc | 
Bất chấp sụt giảm thương mại toàn cầu do Covid-19, WTO dự đoán rằng, khối lượng thương mại hàng hóa thế giới sẽ tăng 8% vào 2021 và 4% vào năm 2022.
Theo WTO, ảnh hưởng kinh tế của đại dịch ít hơn dự kiến ​​trong cả tăng trưởng kinh tế và thương mại phần lớn là do các chính sách tài chính và tiền tệ mạnh mẽ của nhiều chính phủ; với phạm vi địa lý lớn hơn nhiều so với phản ứng đối với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
Tuy nhiên, các số liệu cho thấy một bức tranh không đồng đều. Xuất khẩu từ Bắc Mỹ, châu Âu, châu Phi và Trung Đông đều giảm ít nhất 8%, trong khi khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và Nam Mỹ cố gắng giữ cho xuất khẩu giảm dưới mức trung bình toàn cầu, giảm 3,9% cho năm 2020 và 4,5% tương ứng.
Về phía nhập khẩu, châu Phi, Nam Mỹ và Trung Đông sẽ tiếp tục chứng kiến ​​thương mại hàng hóa trì trệ trong khi các khu vực khác sẽ tăng trưởng.
Về xuất khẩu, Châu Á tiếp tục cung cấp một lượng lớn hàng hóa cho thị trường toàn cầu. Chỉ có châu Á đạt mức tăng trưởng xuất khẩu cho 2020 là 0,3% – do tác động tương đối nhỏ của Covid-19 tại đây. Và thực tế là khu vực này đã cung cấp cho thế giới hàng tiêu dùng và vật tư y tế trong đại dịch, thúc đẩy tổng xuất khẩu của khu vực.
Tổng giám đốc WTO Ngozi Okonjo-Iweala cho biết thêm, triển khai vaccine nhanh chóng, toàn cầu và công bằng là kế hoạch kích thích tốt nhất đối với những nước đang phát triển và sự phục hồi kinh tế bền vững mà tất cả đều cần.
Nguồn: Báo Công Thương
8/ Khai thác CPTPP và FTA: Doanh nghiệp kỳ vọng tương lai
1 phút đọc | 
CPTPP đã thực thi hơn 2 năm (từ 1/4/2019). Trong 2 năm đầu CPTPP có hiệu lực, có tới hơn ½ thời gian hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bị tác động khó khăn nghiêm trọng bởi Covid-19. Các phân tích, dự báo nhận định trong trung hạn, doanh nghiệp phải chuẩn bị một kịch bản chấp nhận “sống chung” với Covid-19 trong “bình thường mới”. Dù vậy, đa số doanh nghiệp vẫn tỏ ra lạc quan.
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), kết quả khảo sát cho thấy có 60,4% doanh nghiệp cho biết sẽ tiếp tục hoạt động bình thường; khoảng 13,3% cho biết sẽ vẫn hoạt động kinh doanh tốt trong đại dịch, thậm chí có thể mở rộng kinh doanh; chỉ khoảng 17,2% cho biết hoạt động cầm chừng và khoảng 1% tính tới ngừng kinh doanh tạm thời hoặc vĩnh viễn thời gian tới.
Nhìn nhận về tác dụng của CPTPP và các FTA trong trung hạn, khoảng 60% doanh nghiệp cho rằng, CPTPP và các FTA tương đối hoặc rất hữu ích; khoảng 10% cho rằng, CPTPP và các FTA hầu như không có ý nghĩa gì với họ; 29% không chắc chắn CPTPP hay các FTA có tác động tiêu cực hay tích cực.
Trong dài hạn xa hơn, có khoảng 91,5% doanh nghiệp kỳ vọng sẽ có thể tận dụng được một trong các lợi ích từ CPTPP và các FTA trong hoạt động kinh doanh, trong đó khoảng 57,7% đặt kỳ vọng cao. Sự kỳ vọng này thể hiện ở tất cả các khu vực doanh nghiệp cả FDI, dân doanh và 100% vốn Nhà nước.
Các lợi ích cụ thể được doanh nghiệp kỳ vọng vào CPTPP và các FTA trong tương lai, đó là cơ hội hợp tác, liên doanh với các đối tác nước ngoài; môi trường kinh doanh thuận lợi; có thể tiếp cận, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu có giá trị gia tăng cao hơn; mở rộng thị trường; ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu; nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu giá tốt… Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng thừa nhận rằng, sự thua kém về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sẽ là trở ngại trong việc hiện thực hóa các cơ hội kỳ vọng từ CPTPP và các FTA trong tương lai.
Nguồn: Báo Công Thương
9/ Hải quan Việt Nam tích cực triển khai Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại theo đúng lộ trình
1 phút đọc | 
Tại Hội thảo Tình hình thực thi Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại (WTO FTA) của Việt Nam diễn ra chiều ngày 7/4 tại Hà Nội, ông Alistair Gall, Chuyên gia Tạo thuận lợi thương mại cấp cao Dự án Tạo thuận lợi Thương mại do USAID Tài trợ cho rằng, từ khi phê chuẩn Hiệp định WTO FTA vào tháng 12/2015, Việt Nam đã thực hiện được nhiều nội dung đổi mới và sáng kiến để hợp lý hóa các thủ tục XNK (Xuất Nhập Khẩu).
“Việt Nam đang đúng hướng để tuân thủ đầy đủ hiệp định WTO TFA. Việt Nam đã tuân thủ đầy đủ 25 điều khoản và điều khoản con của Hiệp định này; nhiều khả năng sẽ tuân thủ đầy đủ thêm điều khoản 12 nữa nhưng sẽ cần phải đánh giá thêm. Điều này đồng nghĩa rằng Việt Nam đã hoàn thành được 74% cam kết của mình theo Hiệp định WTO TFA nên chỉ còn 13 điều khoản hoặc điều khoản con cần tiếp tục thực hiện hoặc đổi mới thêm. Một trong những điều khoản quan trọng nhất mà Việt Nam chưa tuân thủ đầy đủ là Điều khoản 7.4 về Quản lý Rủi ro”, ông Alistair Gall nhấn mạnh.
Về tình hình triển khai hiệp định, ông Alistair Gall cho rằng, Tổng cục Hải quan đạt được nhiều tiến bộ trong những năm gần đây qua áp dụng các biện pháp kiểm soát dựa trên rủi ro. Tuy nhiên, sẽ gặt hái được nhiều lợi ích khác nữa với kế hoạch mở rộng phạm vi áp dụng quản lý rủi ro tích hợp sang các thủ tục kiểm tra chuyên ngành và các biện pháp kiểm soát biên giới khác.
Nguồn: Báo Hải Quan
10/ Ðẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ
1 phút đọc | 
Những tháng đầu 2021, dù gặp nhiều khó khăn về nguyên liệu lẫn thị trường, nhưng giá trị xuất khẩu gỗ vẫn tăng nhanh, hứa hẹn một năm thắng lợi ngành gỗ…
Hiện nay, Việt Nam đã phê chuẩn và đang triển khai các FTA có lợi cho ngành gỗ như: Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), EVFTA giữa Việt Nam và Liên hiệp châu Âu (EU); Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và các hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Ðây cũng là những cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp gỗ Việt Nam vươn ra thị trường thế giới. Hơn nữa, Hiệp định VPA/FLEGT giữa Việt Nam và EU, sẽ giảm thời gian giải trình nguồn gốc gỗ hợp pháp cho ngành gỗ Việt, tạo cơ hội cho ngành chế biến gỗ, lâm sản tiến vào EU. Bên cạnh đó, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung kéo dài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho XK đồ gỗ từ Việt Nam sang Mỹ, đặc biệt là đồ gỗ thành phẩm.
Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam mới chiếm khoảng hơn 6% thị phần toàn cầu 450 tỷ USD. Trong đó, các thị trường tiêu thụ chính bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Bên cạnh là một số thị trường tiềm năng như Canada, Nga, Ấn Ðộ và các nước Trung Ðông. Một số mặt hàng là thế mạnh của ta như: viên nén, dăm gỗ, gỗ dán, gỗ ghép, đồ mộc xây dựng, ghế ngồi, các đồ nội thất và bộ phận đồ nội thất… Ðáng chú ý, nhóm nội thất có giá trị xuất khẩu lớn nhất sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định trong thời gian tới.
Nguồn: Báo Nhân Dân 
Sản xuất gỗ MDF xuất khẩu tại Công ty cổ phần đầu tư gỗ VINA, khu Công nghiệp Thanh Bình, xã Thanh Thịnh, huyện Chợ Mới (Bắc Kạn).
11/ Xuất khẩu rau quả tăng tại hầu hết thị trường
1 phút đọc | 
Trong quý 1/2021, xuất khẩu rau quả ghi nhận tín hiệu tích cực tại hầu hết các thị trường tiêu thụ của Việt Nam, điển hình là Trung Quốc. Trị giá xuất khẩu tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 944 triệu USD. Lãnh đạo một DN chuyên XK rau quả sang Mỹ chia sẻ: 2020, tổng trị giá XK nông sản các loại, trong đó phần lớn rau quả XK đạt 48 triệu USD, riêng Mỹ chiếm đến 65%.
Đặc biệt, ưu đãi thuế quan từ các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam-EU (EVFTA) và gần đây nhất là FTA Việt Nam-Vương Quốc Anh (UKVFTA) góp phần giúp cho hoạt động sản xuất, XK của DN nhộn nhịp hơn.
Bên cạnh đó, hàng rau quả XK chủ yếu tới thị trường Trung Quốc trong 2 tháng đầu 2021, đạt 352,83 triệu USD; chiếm 62,5% tổng trị giá XK rau quả của Việt Nam và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2020 (một phần nhờ nhu cầu trong dịp Tết Nguyên Đán). Tại cửa khẩu Bằng Tường – cảng thương mại trái cây trên đất liền lớn nhất của Trung Quốc, hoạt động XK các mặt hàng trái cây như thanh long, mít, dưa hấu, xoài và nhiều loại trái cây khác của Việt Nam diễn ra khá sôi động. Bên cạnh đó, trái cây Việt Nam được đưa vào các trung tâm mua sắm của Trung Quốc càng nhanh càng tốt để sớm đến tay người tiêu dùng.
Đáng chú ý, khi UKVFTA có hiệu lực, >94% rau quả và các chế phẩm sẽ có mức thuế suất 0%. Nhiều sản phẩm là thế mạnh như vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, dứa, dưa… sẽ có lợi thế tiếp cận thị trường Anh, cạnh tranh với một số quốc gia trái cây nhiệt đới như Brazil, Thái Lan, Malaysia – nơi chưa có FTA với Vương quốc Anh.
Nguồn: Báo Hải Quan
12/ Gần 10% tỷ trọng container đến Mỹ từ Việt Nam
2 phút đọc |
Lượng container hàng hóa xuất phát từ ASEAN đến Mỹ lần đầu tiên kéo tỷ trọng của khu vực vượt mốc 20%.
Trung tâm Hàng hải Nhật Bản (JMC) đã tổng hợp dữ liệu thương mại đường biển của 18 quốc gia/khu vực châu Á, cho thấy tỷ trọng container hàng hóa xuất phát từ Singapore, Việt Nam và 6 nước Đông Nam Á khác tăng lên 21,9%.
Tiêu biểu, tỷ trọng container đi từ Trung Quốc đến Mỹ giảm 0,9 điểm % xuống còn 58,9%. Đây là năm thứ hai liên tiếp tỷ trọng của đất nước tỷ dân nằm dưới ngưỡng 60%. Chiến lược “Trung Quốc+1” đã bắt đầu có tác dụng, tạo nên sự đa dạng về chuỗi cung ứng của thế giới và giảm phụ thuộc vào Trung Quốc
Việt Nam, nền kinh tế tập trung nhiều nhà máy sản xuất đồ nội thất và điện thoại thông minh đang hưởng rõ rệt từ chiến tranh thương mại giữa Mỹ – Trung Quốc. Lượng container từ Việt Nam sang Mỹ đã tăng 24,8% lên 1,99 triệu chiếc – tỷ trọng 10,8% (tức tăng 1,8 điểm % so với năm 2019). Sau đại dịch Covid-19, có khả năng Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong dòng chảy thương mại của thế giới.
Giá cước vận tải biển đang tăng gấp 3x lần so với năm 2019 khắp châu Á. Theo Sàn Giao dịch Vận tải Thượng Hải, cước phí đối với container loại 40 foot (1 foot = 3.05dm) đi từ Trung Quốc sang Mỹ rơi vào khoảng 4.008 USD –  mức cao kỷ lục từ trước đến nay. “Đặc biệt, Việt Nam và Thái Lan đang cực kỳ khan hiếm container”, nguồn tin nói thêm.
Nguồn: VietnamBiz
Tàu làm hàng tại Cảng quốc tế Tân Cảng – Cái Mép.
13/ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2021 có thể đạt 6,5%
30 giây đọc | 
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán GDP của Việt Nam sẽ đạt 6,5% trong 2021 – cao hơn 6% của toàn cầu. Đồng thời, GDP Việt Nam dự đoán sẽ đạt 7,2% vào 2022.
Kết thúc 2020, GDP Việt Nam tăng 2,9% dù chịu tác động chuỗi từ hệ thống kinh tế toàn cầu gây nên bởi đại dịch Covid-19. Báo cáo này cho biết Việt Nam sẽ tiếp tục đạt GDP 6,5% và 7,2% lần lượt trong 2021 và 2022. IMF cũng dự báo thất nghiệp sẽ giảm từ 3,3% (2020) xuống 2,7% (2021); tiếp tục giảm còn 2,4% trong năm 2022.
Tuy nhiên, IMF cảnh báo các nền kinh tế tại những thị trường mới nổi đang tụt hậu so với các nền kinh tế tiên tiến. Đe dọa xóa đi nỗ lực xóa đói giảm nghèo toàn cầu. IMF cho rằng các chính phủ nên tiếp tục tập trung “việc thoát khỏi khủng hoảng COVID-19” bằng hỗ trợ tài khóa. Cần hạn chế những thiệt hại kinh tế dài hạn từ cuộc khủng hoảng và gia tăng đầu tư công. Tiêu biểu, các quốc gia giàu hơn cần hỗ trợ các nước thu nhập thấp thực hiện tiêm chủng COVID-19 vì tương lai của toàn cầu. “Chúng ta không cách nào vượt qua đại dịch này nếu không đi cùng nhau”, bà tổng giám đốc IMF Kristalina Georgieva nhấn mạnh.
Theo Reuters, các lãnh đạo tài chính của G20 sẽ ủng hộ kế hoạch tái phân bổ 650 tỉ USD thông qua SDR (Quyền rút vốn đặc biệt) để hỗ trợ các nước chịu tác động nặng nhất từ COVID-19. SDR là một dạng tiền dự trữ quốc tế do IMF tạo nên, có vai trò bổ sung cho dự trữ tiền của các quốc gia thành viên.
Nguồn: Báo Công Thương
14/ Giá Cotton giảm – biến động trong ngắn hạn
30 giây đọc | 
Ngày 12 tháng 4, hợp đồng tương lai của Bông Cotton giảm nhẹ 1.84 xu (USD) hay 2.2% xuống 80.56 xu mỗi pound (lb); tiếp nối đà giảm chung của thị trường hạt nông sản. Bên cạnh, dự báo về mưa và thời tiết thuận lợi tại Tây Texas tạo thêm áp lực lên giá Cotton. Khi lượng trồng thêm có nhiều khả năng sẽ tăng cao trong thời gian sắp tới.
Nhìn rộng hơn, với đà xuất khẩu mạnh và sức mua tốt, trong xu hướng giảm sản xuất thành phẩm hậu đại dịch Covid-19 khi chuỗi cung ứng toàn cầu đang dần bình thường hóa. Tất cả điều này có thể tạo nên những biến động về giá Bông Cotton.
Nguồn: Reuters
15/ Tự chủ nguyên liệu để tận dụng ưu đãi từ CPTPP
2 phút đọc | 
Để phát huy hiệu quả hơn nữa Hiệp định CPTPP thì quan trọng nhất, là các ngành hàng xuất khẩu chủ lực phải tự chủ được nguồn cung nguyên liệu.
Theo bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), CPTPP có hiệu lực từ tháng 1/2019 đã mở đường cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tận dụng cơ hội từ thị trường 2.500 tỷ USD này. Đến nay, có 6 quốc gia phê chuẩn CPTPP là Australia, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Canada và Mexico. Xuất khẩu sang 6 thị trường này đạt một số kết quả đáng ghi nhận: 2019 đạt 34,3 tỷ USD, tăng 8,1% so với 2019; năm 2020 duy trì ở mức tương đương, đạt 34 tỷ USD.
Thị phần hàng hóa Việt Nam tại các nước CPTPP hiện còn thấp. Theo số liệu của Trade Map, nhập khẩu năm 2019 từ Việt Nam mới chiếm 3,1% trong tổng nhập khẩu của Nhật Bản; chiếm 1,9% ở Australia; 1,6% ở New Zealand; 1,3% ở Mexico và mới chỉ chiếm 1,1% ở Canada. Rõ ràng, dư địa tăng trưởng cho hàng hóa Việt Nam tại các thị trường thuộc CPTPP còn rất lớn.
Một trong những chỉ dấu quan trọng trong thực thi mỗi FTA thể hiện ở tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan. Tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP khi xuất khẩu chưa được cao so với tỷ lệ trung bình của tất cả các FTA. Tuy nhiên, xét riêng 2 nước lần đầu tiên có FTA với Việt Nam là Mexico và Canada thì tỷ lệ sử dụng C/O là khá lớn. Năm 2020, trong số 1,37 tỷ USD cấp C/O, thì trị giá C/O cấp cho hàng hóa sang Mexico và Canada là 1,27 tỷ USD, 17% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang 2 thị trường này. Đáng lưu ý, nhiều loại hàng hóa đã có thể được hưởng thuế 0%, mà không cần thiết phải xin C/O để hưởng ưu đãi theo CPTPP.
Cũng cần nói thêm, quy tắc xuất xứ của CPTPP phức tạp hơn so với các FTA mà Việt Nam đã tham gia. Hơn nữa, doanh nghiệp đã quen với khai C/O theo mẫu ASEAN (mẫu D) hoặc ASSEAN + (chẳng hạn như mẫu E), thì việc doanh nghiệp ít lựa chọn khai C/O theo CPTPP là điều dễ hiểu.
Một lý do rất quan trọng khác là, để được hưởng ưu đãi thuế quan theo CPTPP, thì hàng hóa phải đáp ứng được quy tắc xuất xứ nội khối, trong khi những ngành hàng được kỳ vọng gia tăng xuất khẩu là dệt may, giày dép… lại sử dụng nhiều nguyên liệu ngoại khối.  Do đó để tận dụng hiệu quả CPTPP, ngành như dệt may, giày dép, cần đẩy mạnh đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu. Tuy dài hơi, phải có lộ trình cho việc này, nếu muốn tận dụng được dư địa tăng trưởng tại khu vực thị trường CPTPP.
Đối với doanh nghiệp, cần chủ động tìm hiểu Hiệp định, thay đổi tư duy kinh doanh, nghiên cứu kỹ thị trường, có kế hoạch cụ thể trong lĩnh vực/ngành hàng của mình, lấy sức ép của các tiêu chuẩn cao trong CPTPP để nâng cao năng lực cạnh tranh, hình thành các chuỗi giá trị, tạo nền tảng khai thác các FTA lâu dài, bền vững.
Nguồn: Báo Quốc Tế
BSA Tổng hợp
Nữ doanh nhân kể chuyện ‘ứng biến để vươn mình’ trong đại dịch