Trải thảm đỏ để đón nhân tài công nghệ cao

Việt Nam xác định 11 ngành công nghệ mũi nhọn, ứng dụng AI và tự động hóa cao. Ảnh: Headlight.news

“Một người bạn của tôi bỏ Thụy Điển về Trung Quốc làm việc, được cấp nhà riêng và hưởng lương gấp ba mặt bằng chung của giáo sư ở Thẩm Quyến”. Câu chuyện của ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Tập đoàn CMC kiêm Hiệu trưởng Đại học CMC, đã làm nóng lên cuộc tranh luận về chính sách thu hút nhân tài của Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã xác định 11 lĩnh vực công nghệ trong yếu, nhưng đó là khoảng không đáng báo động.

10 người đi,  chưa đầy 4 người về

Dữ liệu của Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI) co thấy nhiều người học đại học tại Việt Nam, chỉ 10% tiếp tục học sau đại học trong nước. Số còn tiếp tục học cao lên ở nước ngoài và chọn xứ người để tiếp tục phát triển sự nghiệp. Chỉ khoảng 36% học ở nước ngoài rồi trở về Việt Nam làm việc.

Như vậy, cứ 10 người Việt đi học ở nước ngoài thì chỉ chưa đầy 4 người quay về nước làm việc, số còn lại đều chọn ở lại nước ngoài để phát triển sự nghiệp. Bà Mariam J. Sherman, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, gần 65% nhân tài công nghệ hàng đầu tai Việt Nam trong các lĩnh vực công nghệ trọng yếu và mới nổi hiện đang làm việc ở nước ngoài.

Khoảng trống nhân tài đó không phải là là bài toán dễ giải quyết dứt điểm một sớm một chiều.

Việt Nam đặt tham vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao dựa trên công nghệ vào năm 2045, tham gia toàn diện vào chuỗi giá trị bán dẫn, nằm trong nhóm ba nước hàng đầu ASEAN về AI, ngành công nghê sinh học đóng góp ít nhất 7% GDP. Tuy nhiên, nền tảng nhân lực để thực thi các mục tiêu này lại đang bộc lộ nhiều điểm yếu.

Theo WB, lực lượng STEM (khoa học, công nghệ, kỹ sư và toán học) trẻ của Việt Nam đạt khoảng 560.000 kỹ sư và nhà khoa học vào năm 2023. Nhưng đây chỉ mới là “điểm khởi đầu” của nền kinh tế công nghệ cao mà Việt Nam đang phác họa và theo đuổi. Trong các ngành then chốt, Việt Nam vẫn thiếu một “khối lượng tới hạn” – tức đội ngũ chuyên gia và giảng viên trình độ cao được quốc tế công nhận – để có thể dẫn dắt sự đổi mới.

Báo cáo của WB chỉ ra những nguyên nhân sâu xa: chi tiêu cho giáo dục đại học còn quá thấp, chỉ chiếm 0,2–0,3% GDP. Hệ quả là chất lượng đào tạo sau đại học còn yếu, dẫn đến việc chỉ 10% nhân tài công nghệ chọn theo học sau đại học trong nước, phần lớn còn lại tìm kiếm cơ hội ở nước ngoài. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu và startup trong nước được ví như đang ở thế “chạy khi bị trói chân”.

“Trải thảm đỏ”

Hội thảo “Thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm phát triển nguồn nhân lực, hạ tầng và chính sách đột phá cho các ngành công nghệ chiến lược tại Việt Nam” hôm 2-10 tại Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) Hòa Lạc đặt ra nhiều câu hỏi.

Nguyễn Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Tập đoàn CMC kiêm Hiệu trưởng Đại học CMC, đã đề xuất Việt Nam nên học hỏi mô hình của Trung Quốc trong việc mời gọi các chuyên gia Hoa kiều “về nước bằng bất kể giá nào”. Chính sách này không chỉ là lời mời suông mà đi kèm đãi ngộ cụ thể: cấp nhà riêng, mức lương cao gấp nhiều lần mặt bằng chung, và quan trọng hơn là trao quyền tự chủ để họ xây dựng đội ngũ của riêng mình. “Trải thảm đỏ mời Việt kiều về là phương án nhanh chóng”, hiệu trưởng Đại học CMC nhấn mạnh.

Giám đốc WB tại Việt Nam Mariam J. Sherman đồng ý với nhận định này. Bà tin rằng: “Thu hút nhân tài với những chính sách ưu đãi, điều kiện thuận lợi sẽ giúp thu hẹp khoảng cách về tri thức và mạng lưới quan hệ mà nếu không sẽ mất hàng thập niên để xây dựng”, bà Sherman phát biểu tại sự kiện ở NIC cùng ngày.

Nhưng đãi ngộ vật chất chưa hẳn là tất cả. Ông Trần Văn Xuân, Chủ tịch và đồng sáng lập Công ty Brain-Life, người có 25 năm sống ở nước ngoài, cho rằng vai trò chủ động của cá nhân là yếu tố quyết định. Ông cho rằng nhà khoa học, trí thức trẻ nên xem về Việt Nam là “cơ hội để phát triển”. Ông tin rằng động cơ trở về không nên chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào chuyện đãi ngộ, mà là “nghĩ lớn”, hướng đến sứ mệnh mà mình cho rằng đáng để theo đuổi.

Ông kể câu chuyện của startup Brain-Life mà ông sáng lập. Công ty đang tập trung vào bài toán sức khỏe tinh thần bằng các giải pháp AI. Trong đội ngũ hơn 20 nhân sự, có tới 10 tiến sĩ là các chuyên gia với 10-15 năm kinh nghiệm ở nước ngoài. Họ không trở về vì một lời hứa đãi ngộ vật chất xa hoa, mà vì cơ hội được cống hiến chuyên môn để giải quyết một vấn đề mang lại tác động tốt tại Việt Nam. “Điều quan trọng là đưa ra bài toán để khuyến khích họ đóng góp và cống hiến”, ông nói.

Bài toán của Việt Nam

Hai quan điểm “trải thảm đỏ” và “tạo cơ hội” không triệt tiêu lẫn nhau, mà hòa quyện, bổ sung cho một chiến lược thu hút nhân tài toàn diện.

“Trải thảm đỏ” là vai trò của Chính phủ và các tập đoàn lớn. Cần có những chính sách đột phá, những gói đãi ngộ đủ sức cạnh tranh để thu hút các chuyên gia đầu ngành. Song song đó, việc tăng cường đầu tư nền tảng cho giáo dục đại học và R&D là yêu cầu bắt buộc để tạo ra môi trường làm việc xứng tầm.

Đồng thời, “tạo cơ hội” là sân chơi của các doanh nghiệp, startup và viện nghiên cứu. Chính những đơn vị này sẽ đưa ra các “bài toán” thực tế, tạo ra một môi trường làm việc linh hoạt và đầy cảm hứng. WB cũng khuyến nghị Việt Nam cần tăng cường mối liên kết giữa đại học, doanh nghiệp và chính quyền thông qua các cụm công nghệ, chương trình luân chuyển nhân tài và tài trợ nghiên cứu phối hợp.

Tham vọng bước lên bậc thang công nghệ để trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 là hành trình dài. Chiến lược quốc gia và tầm nhìn của doanh nghiệp vẫn là hai vấn đề mấu chót của hành trình này. Mà không chỉ là nhân tài gốc Việt, bởi cuộc chơi toàn cầu đòi hỏi một chiến lược bao quát và toàn diện hơn.

Ricky Hồ / BSA Media